Ngày 13/12/2024 (tức ngày 13/11/2024 âm lịch) không phải là ngày THIÊN MÃ TAM CƯỜNG:
Ngày 13/12/2024 (tức ngày 13/11/2024 âm lịch) không phải là ngày THIÊN MÃ TAM CƯỜNG:
Sau khi dùng múi giờ khác múi giờ Trung Quốc, Lịch sử ghi nhận Việt Nam và Trung Quốc đã ăn Tết Nguyên Đán lệch nhau vào các năm 1968, 1969, 1985 và năm 2007. Cá biệt năm 1985, hai nước đón Tết cách nhau 1 năm.
Tại sao lại có hiện tượng ăn Tết Nguyên Đán lệch ngày như vậy?
Từ năm 1967, Việt Nam bắt đầu sử dụng múi giờ GMT +7, Trong khi Trung Quốc là múi giờ GMT +8. Do vậy 2 nước lệch nhau 1 giờ.
Cứ mỗi 23 năm, số giờ chênh lệch cộng dồn thành 1 ngày. Do đó, một số tháng của lịch âm Việt Nam chênh nhau 1 ngày so với Trung Quốc, hình thành lên chu kỳ 23 năm sẽ có 1 lần Tết Âm lịch chênh nhau.
Như vậy, năm 2030 và 2053, Việt Nam sẽ ăn Tết sớm hơn Trung Quốc.
Với những cách tính bù năm nhuận khác nhau, có thể hai nước có thể ăn Tết Nguyên đán cách nhau 1 tháng như năm 1985.
Trong 1000 năm Bắc thuộc cho tới năm 1054, tức thời vua Lý Thái Tông, nước ta sử dụng chung lịch với lịch của Trung Hoa.
Kể từ sau năm 1054, khi vua Lý Thánh tông đã lên ngôi, có tư liệu cho rằng nước ta đã bắt đầu tự soạn lịch riêng, dựa theo các phép lịch bên Trung Hoa.
Từ năm 1407, khi bị nhà Minh đô hộ, nước ta đã chuyển sang dùng lịch cùng với nhà Minh, mãi cho đến thời vua Gia Long, năm 1812.
Từ 1813 - 1945, khi Pháp cai trị nước ta, họ đã lập ra bảng đối chiếu lịch Dương với lịch Âm dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhà Nguyễn vẫn tự soạn và ban lịch riêng theo phép lịch thời Hiến (giống như nhà Thanh) ở Trung Kỳ.
Từ 1946 – 1967, Việt Nam không tự biên soạn Lịch nữa, các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.
Từ 1968 – nay, sau khi trải qua nhiều lần thay đổi múi giờ, giờ chính thức của Việt Nam được công bố tính theo múi giờ số 7, trong khi đó, Trung Quốc lại tính theo múi giờ số 8, vì thế, Việt Nam tiếp tục tự biên soạn lịch riêng cho tới nay.
Thế giới có nhiều loại lịch khác nhau, nhưng hiện nay có 3 loại được sử dụng phổ biến nhất là: lịch dương, lịch âm và lịch âm dương:
Lịch dương là loại lịch được tính toán dựa trên chu kỳ quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Trong tiếng Hán, Mặt Trời còn được gọi là Thái Dương. Vì thế, dương lịch còn được gọi là lịch Thái Dương (hay Thái Dương lịch).
Dương lịch này chia một năm thành 12 tháng, ứng với 365 ngày. Ngoài ra còn có các năm nhuận tức là thêm 1 ngày vào cuối tháng 2 để thành 366 ngày/1 năm. Cách tính năm nhuận như sau:
Cứ 4 năm lại có 1 năm nhuận. Năm nhuận là năm chia hết cho 4, riêng những năm có 2 số cuối là 00 như 2000, 1600 thì phải chia hết cho 400.
Lịch dương đang được chính thức ứng dụng ở hầu hết các nước trên thế giới, chủ yếu là các nước phương Tây.
Lịch âm là loại lịch được tính theo chu kỳ quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Mặt Trăng tiếng Hán còn gọi là Thái Âm, vì thế và âm lịch còn có tên gọi khác là Thái Âm lịch (hay lịch Thái Âm).
Âm lịch cũng chia 1 năm có 12 tháng, mỗi tháng có 29-30 ngày, tức là mỗi năm có 354 - 355 ngày. Những ngày đầu của tháng ứng với trăng khuyết hoàn toàn (Một số lịch ứng với trăng lưỡi liềm)
Tuy nhiên, do những giới hạn của nó, hiện nay lịch âm thuần túy nhất trên thực tế chỉ còn các nước Hồi giáo sử dụng.
Âm dương lịch là loại lịch được tính căn cứ theo cả chuyển động của Mặt Trăng và chuyển động biểu kiến của Mặt Trời, tức nó bao gồm cả lịch âm và lịch dương.
Lịch âm dương kết hợp giữa Âm lịch thuần túy với thời điểm xảy ra tiết khí được tính theo dương lịch.
Do có sự kết hợp như vậy nên Lịch âm dương có thể cho ta tính toán được nhiều yếu tố như thời tiết, thủy triều… Điều này rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt các ngành như hàng hải, ngư nghiệp, khai thác muối...
Ngoài ra, lịch âm dương còn để tính các ngày rằm, mùng 1, các lễ hội trọng đại trong 1 năm. Với những quốc gia chịu sự tín ngưỡng của Phong thủy phương đông, Lịch âm dương còn đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét ngày tốt xấu để tiến hành các việc lớn như: cưới xin, khai trương, xây nhà, động thổ, xuất hành…
Lịch âm dương được dùng phổ biến tại các nước chịu ảnh hưởng của Văn hóa Trung Hoa như: Việt Nam, Trung Quốc, Singapo, Hàn Quốc, Triều tiên…
Theo thập nhị bát tú, ngày mai thuộc:
(Kiết Tú) Tướng tinh con Thỏ, chủ trị ngày Chủ nhật.
Nên làm: Ngày mai là ngày thuận lợi để làm Xây dựng phòng mới.
Cần tránh làm: Trong ngày mai, tuyệt đối cần kiêng cữ các việc: Chôn cất, cưới gả, mở thông đường nước. Nếu như làm các việc trên vào ngày mai có thể sẽ khiến công việc gặp trắc trở, không thuận lợi, làm đâu hỏng đấy.
Ngoại lệ: Sao Tinh là một trong Thất Sát Tinh, nếu sinh con nhằm ngày này nên lấy tên Sao đặt tên cho trẻ để dễ nuôi, có thể lấy tên sao của năm, hay sao của tháng cũng được. Sao Tinh gặp ngày Dần, Ngọ, Tuất đều tốt. Gặp ngày Thân là Đăng Giá (lên xe): xây cất tốt mà chôn cất nguy.
Nếu muốn làm việc trọng đại hay xuất hành vào ngày mai, bạn cần xem thêm ngũ hành, trực, các sao tốt, xấu, giờ Hoàng Đạo và Hắc Đạo, tuổi hợp xung với ngày, cùng hướng xuất hành và giờ xuất hành đẹp để mọi việc hanh thông, thuận lợi như dự định.
Ngày mai là ngày gì theo Âm lịch và ngũ hành
Ngày mai có các sao tốt chiếu về là các sao Nguyệt Đức, Lục Hợp, Kính An, Thiên Nguyện, Thiên Ân, Mẫu Thương.
Ngày mai cũng có các sao xấu chiếu về là sao Tứ Kích, Nguyệt Sát, Thiên Hình, Nguyệt hư.
Ngày mai là ngày tốt, hợp với nhiều tuổi tuy nhiên cũng có một số tuổi không hợp với ngày, cần tránh làm việc trọng đại.
Xem giờ Hoàng Đạo, sao tốt, sao xấu ngày mai
Trong ngày mai có 6 khung giờ đẹp (giờ Hoàng Đạo), thuận lợi để làm mọi việc.Tuy nhiên cũng có các khung giờ xấu (giờ Hắc Đạo) cần tránh để không gặp xui xẻo. Chi tiết khung giờ Hoàng Đạo và Hắc Đạo, bạn có thể xem tại bảng sau:
Trực: Nguy nên làm mọi việc đều xấu, gặp khó khăn, cản trở.
Giờ xuất hành: Những giờ đẹp, thuận lợi cho việc xuất hành, thượng lộ bình an, mọi việc hanh thông là các giờ sau:
Ngày mai cũng cần tránh xuất hành vào các khung giờ xấu là Giờ Tý (23h-1h), giờ Mão (5h-7h), Giờ Thìn (7h-9h), Giờ Ngọ (11h-13h), Giờ Dậu (17h-19h), Tuất (19h-21h), tránh mọi việc khó thành, đi đường có thể gặp trắc trở.
Âm lịch Việt Nam là một loại lịch thiên văn vì nó được tính toán dựa trên sự chuyển động của mặt trời, trái đất và mặt trăng. Ngày tháng âm lịch được tính dựa theo các nguyên tắc sau:
Ngày đầu tiên của tháng âm lịch là ngày chứa điểm Sóc, người ta còn gọi là ngày Sóc
Một năm có 12 tháng âm lịch, riêng năm nhuận có 13 tháng âm lịch (giải thích ở phần sau)
Ngày Đông chí luôn rơi vào tháng 11 âm lịch
Trong một năm nhuận, nếu có 1 tháng không có Trung khí thì tháng đó là tháng nhuận. Nếu nhiều tháng trong năm nhuận đều không có Trung khí thì chỉ tháng đầu tiên sau Đông chí là tháng nhuận.
Lịch Âm của Việt Nam tính theo múi giờ GMT+7 tương ứng với kinh tuyến 105° đông.
Ngày Sóc (New moon) là ngày Trăng bị khuyết hoàn toàn, gọi là ngày “hội diện”.
Sóc là thời điểm “hội diện” tức là Trăng bị khuyết hoàn toàn. Chu kỳ của điểm Sóc là khoảng 29,5 ngày. Ngày chứa điểm Sóc được gọi là ngày Sóc, và đó là ngày bắt đầu tháng âm lịch.
Trung khí là các điểm chia đường hoàng đạo thành 12 phần bằng nhau. Trong đó, bốn Trung khí giữa bốn mùa là đặc biệt nhất: Xuân phân (khoảng 20/3), Hạ chí (khoảng 22/6), Thu phân (khoảng 23/9) và Đông chí (khoảng 22/12).